Gastosic.vn – Ung thư thực quản thường phát triển ở những người trong độ tuổi 50 đến 70. Tỉ lệ mắc bệnh theo giới tính nam: nữ là 3:1. Căn bệnh này được đánh giá là căn bệnh nguy hiểm và có tiên lượng bệnh rất thấp.
Nội dung bài viết
1. Phân loại ung thư thực quản
Có 2 loại ung thư là ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tuyến.
- Ung thư biểu mô tế bào vẩy thường ở vị trí của 2/3 trên thực quản và có liên quan mạnh mẽ tới nghiện rượu và thuốc lá.
- Ung thư biểu mô tuyến thường gặp ở 1/3 dưới thực quản và phần lớn phát triển như là biến chứng của thực quản Barrett, gây ra bởi bệnh trào ngược dạ dày – thực quản mãn tính.
2. Các triệu chứng và dấu hiệu
Giai đoạn sớm thường không có biểu hiện trên lâm sàng. Người bệnh tình cờ phát hiện trên nội soi hoặc nội soi định kỳ ở nhóm bệnh nhân viêm thực quản trào ngược, barrett thực quản. Còn lại phần lớn các bệnh nhân ung thư thực quản đến viện khi bệnh đã muộn, ở giai đoạn tiến triển và không chữa được.
- Hơn 90% các bệnh nhân bị khó nuốt thức ăn đặc, tiến triển trong nhiều tuần, nhiều tháng. Lúc đầu nuốt khó khi ăn thức ăn đặc, sau nuốt khó với cả thức ăn lỏng, thậm chí nước. Khoảng 50% có nuốt đau.
- Thường sụt cân nhiều.
- Đau sau xương ức khi có sự lan rộng ra trung thất.
- Các triệu chứng khác: buồn nôn, nôn, nôn ra máu, ho, viêm phổi, khàn tiếng.
- Nếu có hạch ympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc gan ta chứng tỏ bệnh đã di căn.
4. Chẩn đoán
Ngoài 2 yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán là khó nuốt và sụt cân, để xác nhận chẩn đoán cần thực hiện nội soi với sinh thiết và nhuộm màu. Đây là biện pháp chẩn đoán với độ tin cậy cao, đặc biệt nhuộm màu trong khi nội soi rất có giá trị (nhuộm màu bằng dung dịch lugol, vùng niêm mạc bị ung thư sẽ không bắt màu thuốc nhuộm).
5. Chẩn đoán phân biệt
- Ung thư biểu mô thực quản phải được phân biệt với các nguyên nhân khác gây khó nuốt tiến triển bao gồm chít hẹp tiêu hóa, không giãn cơ thắt thực quản dưới, ung thư biểu mô tuyến của tâm vị.
- Các chỗ chít hẹp tiêu hóa có vẻ lành tính phải được sinh thiết ở nơi xảy ra để loại trừ ung thư kín đáo.
6. Xác định giai đoạn bệnh
Giai đoạn bệnh rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến lựa chọn liệu pháp điều trị. Có 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Cắt bỏ với mục đích chữa khỏi bệnh.
- Giai đoạn 2: Có thể cắt bỏ nhưng không chữa khỏi bệnh.
- Giai đoạn 3: Không cắt bỏ được và không chữa khỏi bệnh.
Bệnh nhân phải qua sự xác định giai đoạn bệnh bằng chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp siêu âm nội soi. Nhóm bệnh nhân đã có các di căn xa, có sự thâm nhập vào trung thất hoặc màng phổi, hoặc tổn thương hạch sẽ không thể cắt bỏ.
7. Điều trị ung thư thực quản
- Trên thực tế rất ít bệnh nhân phát hiện ra ngay từ giai đoạn 1. Nếu cắt bỏ khối u, ti lệ sống thêm 3 năm là 25-50%.
- 40% các trường hợp phát hiện ung thư thực quản là ở các giai đoạn sau, không thể cắt bỏ khối u nên mục đích điều trị chỉ là khống chế u tại chỗ và làm giảm nhẹ.
- Nhóm không thể cắt bỏ sẽ được gửi đi làm liệu pháp chiếu xạ. Liệu pháp này có thể giúp 50% bệnh nhân dễ nuốt hơn, và cải thiện rõ sau 2 tháng điều trị.
- Chiếu xạ kết hợp hóa liệu pháp: ưu điểm hơn chiếu xạ đơn thuần đối với ung thư thực quản chưa có di căn. Nó có thể giúp khống chế bệnh tại chỗ và kéo dài thời gian sống thêm. Nhưng độc tính cũng lớn hơn nhiều so với chiếu xạ đơn thuần. Việc lựa chọn bệnh nhân phù hợp là rất quan trọng.
Tiên lượng chung của ung thư thực quản vẫn còn xấu, với dưới 5% tỉ lệ sống thêm được 5 năm.